Dịch + Giải thích từ mới Passage "Book Review" IELTS READING

· Social Issues,Reading,Cam

I. Kiến thức liên quan

II. Dịch + Giải thích từ mới Passage "Book Review" IELTS READING

Book Review

Bài đọc thuộc chương trình học của lớp IELTS ONLINE READING 1 KÈM 1 của IELTS TUTOR

The Happiness Industry: How the Government and Big Business Sold Us Well-Being

By William Davies

‘Happiness is the ultimate goal because it is self-evidently good. If we are asked why happiness matters we can give no further external reason. It just obviously does matter.’ This pronouncement by Richard Layard, an economist and advocate of ‘positive psychology’, summarises the beliefs of many people today. For Layard and others like him, it is obvious that the purpose of government is to promote a state of collective well-being. The only question is how to achieve it, and here positive psychology – a supposed science that not only identifies what makes people happy but also allows their happiness to be measured – can show the way. Equipped with this science, they say, governments can secure happiness in society in a way they never could in the past.

IELTS TUTOR lưu ý:

Ý của đoạn này IELTS TUTOR hướng dẫn như sau:

  • Đánh giá sách
    • Ngành công nghiệp hạnh phúc: Chính phủ và doanh nghiệp lớn đã bán cho chúng ta hạnh phúc như thế nào - William Davies
    • ‘Hạnh phúc là mục tiêu tối quan trọng bởi vì nó hiển nhiên là điều tốt. Nếu chúng ta được hỏi tại sao hạnh phúc lại quan trọng, chúng ta không thể đưa ra thêm lý do bên ngoài nào. Chỉ là rõ ràng nó quan trọng.” Tuyên bố này của Richard Layard, một nhà kinh tế và người ủng hộ ‘tâm lý tích cực’ tóm tắt niềm tin của nhiều người ngày nay. Đối với Layard và những người như ông, rõ ràng mục đích của chính phủ là thúc đẩy một trạng thái tập thể hạnh phúc. Câu hỏi duy nhất là làm thế nào để đạt được nó, và ở đây thì tâm lý tích cực, được cho là một lĩnh vực khoa học, không chỉ xác định điều khiến cho mọi người hạnh phúc mà còn đo lường được hạnh phúc của họ. Người ta cho rằng, các chính phủ áp dụng được lĩnh vực khoa học này có thể bảo đảm hạnh phúc trong xã hội theo cách mà họ chưa bao giờ có thể làm trong quá khứ.

It is an astonishingly crude and simple-minded way of thinking, and for that very reason increasingly popular. Those who think in this way are oblivious to the vast philosophical literature in which the meaning and value of happiness have been explored and questioned, and write as if nothing of any importance had been thought on the subject until it came to their attention. It was the philosopher Jeremy Bentham (1748-1832) who was more than anyone else responsible for the development of this way of thinking. For Bentham it was obvious that the human good consists of pleasure and the absence of pain. The Greek philosopher Aristotle may have identified happiness with self-realisation in the 4th century BC, and thinkers throughout the ages may have struggled to reconcile the pursuit of happiness with other human values, but for Bentham all this was mere metaphysics or fiction. Without knowing anything much of him or the school of moral theory he established – since they are by education and intellectual conviction illiterate in the history of ideas – our advocates of positive psychology follow in his tracks in rejecting as outmoded and irrelevant pretty much the entirety of ethical reflection on human happiness to date.

Ý của đoạn này IELTS TUTOR hướng dẫn như sau:

  • Đó là một cách suy nghĩ cực kì thô lỗ và đơn giản, và vì lẽ đó cái lí do đơn giản này ngày càng phổ biến. Những người nghĩ theo cách này không biết gì về văn học triết học rộng lớn, trong đó ý nghĩa và giá trị của hạnh phúc đã được khám phá và được nghi vấn, và viết như thể chủ đề này không có gì quan trọng cho đến khi họ chú ý. Nhà triết học Jeremy Bentham (1748–1832) là người hơn bất cứ ai chịu trách nhiệm cho sự phát triển của lối tư duy này. Đối với Bentham, rõ ràng là điều tốt đẹp của con người bao gồm niềm vui và không có đau đớn. Nhà triết học Hy Lạp Aristotle có thể đã xác định hạnh phúc với sự tự nhận thức vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, và các nhà tư tưởng trong suốt thời đại có thể phải vật lộn để hòa hợp việc theo đuổi hạnh phúc với các giá trị khác của con người, nhưng đối với Bentham, đây chỉ là lý thuyết suông hay hư cấu. Không biết gì nhiều về Bentham hay trường phái lý thuyết đạo đức ông ấy đã thiết lập – bởi chúng được truyền lại bởi giáo dục và niềm tin trí tuệ mù chữ trong lịch sử tư tưởng – những người ủng hộ tâm lý tích cực phủ định lối tư duy của ông vì gần như toàn bộ phản ánh đạo đức về hạnh phúc của con người cho đến nay đã lỗi thời và không liên quan.

But as William Davies notes in his recent book The Happiness Industry, the view that happiness is the only self-evident good is actually a way of limiting moral inquiry. One of the virtues of this rich, lucid and arresting book is that it places the current cult of happiness in a well-defined historical framework. Rightly, Davies his story with Bentham, noting that he was far more than a philosopher. Davies writes, ‘Bentham’s activities were those which we might now associate with a public sector management consultant’. In the 1790s, he wrote to the Home Office suggesting that the departments of government be linked together through a set of ‘conversation tubes’, and to the Bank of England with a design for a printing device that could produce unforgeable banknotes. He drew up plans for a ‘frigidarium’ to keep provisions such as meat, fish, fruit and vegetables fresh. His celebrated design for a prison to be known as a ‘Panopticon’, in which prisoners would be kept in solitary confinement while being visible at all times to the guards, was very nearly adopted. (Surprisingly, Davies does not discuss the fact that Bentham meant his Panopticon not just as a model prison but also as an instrument of control that could be applied to schools and factories.)

Ý của đoạn này IELTS TUTOR hướng dẫn như sau:

  • Nhưng như William Davies đã lưu ý trong cuốn sách gần đây của ông, The Happiness Industry, quan điểm cho rằng hạnh phúc hiển nhiên là điều tốt thực sự là một cách hạn chế yêu cầu đạo đức. Một trong những ưu điểm của cuốn sách phong phú, sáng suốt và cuốn hút này là nó đặt sự sùng bái hạnh phúc hiện tại trong một khuôn khổ lịch sử được xác định rõ ràng. Đúng vậy, Davies bắt đầu câu chuyện của mình với Bentham, lưu ý rằng ông ấy còn hơn cả một nhà triết học. Davies viết, ‘Các hoạt động của Bentham là những hoạt động mà chúng ta có thể liên tưởng tới một nhà tư vấn quản lý khu vực công’. Vào những năm 1790, ông đã viết cho Home Office gợi ý rằng các phòng ban của chính phủ nên được liên kết với nhau thông qua một bộ ‘ống hội thoại’ và gợi ý cho Ngân hàng Anh với thiết kế cho một thiết bị in có thể sản xuất tiền giấy không thể làm giả được. Ông vẽ ra các kế hoạch cho “frigidarium” để dự trữ thực phẩm như thịt, cá, trái cây và rau quả tươi. Ông đã cử hành thiết kế cho một nhà tù được biết đến là “panoptican”, trong đó tù nhân sẽ bị giam giữ một mình trong khi được quản ngục theo dõi mọi lúc, đã gần như được chấp nhận. (Đáng ngạc nhiên, Davies không thảo luận về việc Bentham cho rằng Panoptican của ông không chỉ là một nhà tù kiểu mẫu mà còn là một công cụ kiểm soát có thể áp dụng cho các trường học và nhà máy).

Bentham was also a pioneer of the ‘science of happiness’. If happiness is to be regarded as a science, it has to be measured, and Bentham suggested two ways in which this might be done. Viewing happiness as a complex of pleasurable sensations, he suggested that it might be quantified by measuring the human pulse rate. Alternatively, money could be used as the standard for quantification: if two different goods have the same price, it can be claimed that they produce the same quantity of pleasure in the consumer. Bentham was more attracted by the latter measure. By associating money so closely to inner experience, Davies writes, Bentham ‘set the stage for the entangling of psychological research and capitalism that would shape the business practices of the twentieth century’.

IELTS TUTOR lưu ý:

Ý của đoạn này IELTS TUTOR hướng dẫn như sau:

  • Bentham cũng là người tiên phong của “khoa học về hạnh phúc”. Nếu hạnh phúc được coi là khoa học, nó phải được đong đếm, và Bentham đề nghị hai cách mà có thể thực hiện được điều này. Coi hạnh phúc là một phức hợp của các cảm giác hài lòng, ông cho rằng nó có thể được định lượng bằng cách đo nhịp tim của con người. Ngoài ra, tiền có thể được sử dụng làm tiêu chuẩn để định lượng: nếu hai hàng hóa khác nhau có cùng một mức giá, có thể khẳng định rằng chúng tạo ra cùng một lượng niềm vui trong người tiêu dùng. Bentham bị thu hút bởi biện pháp thứ hai hơn. Davies viết bằng cách liên hệ chặt chẽ tiền với trải nghiệm từ tâm, Bentham “đã thiết lập một nền tảng phức tạp về nghiên cứu tâm lý và chủ nghĩa tư bản, những điều sẽ định hình các hoạt động kinh doanh của thế kỷ XX”.

The Happiness Industry describes how the project of a science of happiness has become integral to capitalism. We learn much that is interesting about how economic problems are being redefined and treated as psychological maladies. In addition, Davies shows how the belief that inner of pleasure and displeasure can be objectively measured has informed management studies and advertising. The tendency of thinkers such as J B Watson, the founder of behaviourism*, was that human beings could be shaped, or manipulated, by policymakers and managers. Watson had no factual basis for his view of human action. When he became president of the American Psychological Association in 1915, he ‘had never even studied a single human being’: his research had been confined to experiments on white rats. Yet Watson’s reductive model is now widely applied, with ‘behaviour change’ becoming the goal of governments: in Britain, a ‘Behaviour Insights Team’ has been established by the government to study how people can be encouraged, at minimum cost to the public purse, to live in what are considered to be socially desirable ways.

Modern industrial societies appear to need the possibility of ever-increasing happiness to motivate them in their labours. But whatever its intellectual pedigree, the idea that governments should be responsible for promoting happiness is always a threat to human freedom.

* ‘behaviourism’: a branch of psychology which is concerned with observable behaviour

IELTS TUTOR lưu ý:

Ý của đoạn này IELTS TUTOR hướng dẫn như sau:

  • “The Happiness Industry” miêu tả dự án của ngành khoa học của hạnh phúc đã trở thành một phần cần thiết cho chủ nghĩa tư bản như thế nào. Chúng ta học được điều thú vị về làm thế nào để những vấn đề kinh tế được định nghĩa lại và giải quyết như những căn bệnh tâm lý. Thêm vào đó, Davies chỉ ra niềm tin về tình trạng tâm lý của sự hài lòng và sự khó chịu có thể được đo lường một cách khách quan cung cấp thông tin cho việc quảng cáo và các nghiên cứu quản lý như thế nào. Xu hướng của các nhà tư tưởng như J B Watson, nhà tạo lập của chủ nghĩa hành vi, là loài người có thể được định hình hoặc bị thao túng bởi các nhà hoạch định chính sách và những người quản lý. Watson không có nền tảng dựa trên căn cứ có thực cho quan điểm của ông ấy về hành động của con người. Khi ông ấy trở thành chủ tịch của Hiệp hội Tâm lý học Mỹ vào năm 1915, ‘ông ấy thậm chí chưa từng nghiên cứu một cá nhân người nào’: Nghiên cứu của ông ấy chỉ hạn chế ở những thí nghiệm trên chuột trắng. Hình mẫu rút gọn của Yet Watson hiện nay đang được áp dụng rộng rãi, với việc “thay đổi hành vi” trở thành mục tiêu của các chính phủ: ở Anh, một “Nhóm Hành Vi Sáng Suốt” đã được thành lập bởi chính phủ để nghiên cứu cách con người được khuyến khích như thế nào, ở mức chi phí thấp nhất của tiền công, để sống dựa trên những gì đang được cho là những cách đáng mong ước mang tính chất xã hội.
  • Các xã hội công nghiệp hiện đại dường như cần khả năng tăng cường hạnh phúc để thúc đẩy họ trong công việc của họ. Nhưng bất kể nguồn gốc trí tuệ của nó là gì, ý tưởng rằng chính phủ nên chịu trách nhiệm cho việc thúc đẩy hạnh phúc luôn luôn là 1 mối đe dọa cho tự do của loài người.

Questions 27-29

Choose the correct letter, A, B, C or D. Write the correct letter in boxes 27-29 on your answer sheet.

27. What is the reviewer’s attitude to advocates of positive psychology?

A. They are wrong to reject the ideas of Bentham.

B. They are over-influenced by their study of Bentham’s theories.

C. They have a fresh new approach to ideas on human happiness.

D. They are ignorant about the ideas they should be considering.

28. The reviewer refers to the Greek philosopher Aristotle in order to suggest that happiness

A. may not be just pleasure and the absence of pain.

B. should not be the main goal of humans.

C. is not something that should be fought for.

D. is not just an abstract concept.

29. According to Davies, Bentham’s suggestion for linking the price of goods to happiness was significant because

A. it was the first successful way of assessing happiness.

B. it established a connection between work and psychology.

C. it was the first successful example of psychological research.

D. it involved consideration of the rights of consumers.

IELTS TUTOR lưu ý:

Questions 30-34

Complete the summary using the list of words A-G below. Write the correct letter, A-G, in boxes 30-34 on your answer sheet.

Jeremy Bentham

Jeremy Bentham was active in other areas besides philosophy. In the 1970s he suggested a type of technology to improve 30……………………… for different Government departments. He developed a new way of printing banknotes to increase 31………………………… and also designed a method for the 32 …………………………. of food. He also drew up plans for a prison which allowed the 33…………………………. of prisoners at al times, and believed the same design could be used for other institutions as well. When researching happiness, he investigated possibilities for its 34……………………….., and suggested some methods of doing this.

A. measurement

B. security

C. implementation

D. profits

E. observation

F. communication

G. preservation

Questions 35-40

Do the following statements agree with the claims of the writer in Reading Passage 3? In boxes 35-40 on your answer sheet, write:

YES if the statement agrees with the claims of the writer

NO if the statement contradicts the claims of the writer

NOT GIVEN if it is impossible to say what the writer thinks about thiS

35. One strength of The Happiness Industry is its discussion of the relationship between psychology and economics.

36. It is more difficult to measure some emotions than others.

37. Watson’s ideas on behaviourism were supported by research on humans he carried out before 1915.

38. Watson’s ideas have been most influential on governments outside America.

39. The need for happiness is linked to industrialisation.

40. A main aim of government should be to increase the happiness of the population.

IELTS TUTOR lưu ý:

Các khóa học IELTS online 1 kèm 1 - 100% cam kết đạt target 6.0 - 7.0 - 8.0

>> IELTS Intensive Writing - Sửa bài chi tiết

>> IELTS Intensive Listening

>> IELTS Intensive Reading

>> IELTS Cấp tốc

>> Thành tích học sinh IELTS TUTOR với hàng ngàn feedback được cập nhật hàng ngày

Feedback
Khóa học IELTS READING
IELTS READING
Tại sao chọn IELTS TUTOR